Vùng đất Tây Nam Bộ hay còn gọi là đồng bằng Sông Cửu Long được kiến tạo bởi các thế hệ cộng đồng cư dân khai hoang mở cõi từ thời hoang vắng, hiểm trở, chưa có dấu chân người cách đã vài trăm năm.
Các cộng đồng cư dân, do hoàn cảnh lịch sử khác nhau, đã có mặt tại vùng đất này vào những thời điểm khác nhau, chủ yếu là các tộc người Khmer, Việt, Hoa, trong đó người Việt đóng vai trò chủ thể cho sự phát triển vùng đất.
Trên các không gian sinh tồn của vùng đất mới, cư dân Tây Nam Bộ đã lựa chọn, phát triển các phương thức sinh kế thích hợp, như làm nông, làm ngư, làm nghề thủ công…, như một sự thích nghi với bối cảnh môi sinh.
Các giá trị văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội của cư dân Tây Nam Bộ cũng được hình thành và phát triển trên nền cảnh đó.
1. Về tín ngưỡng của người Việt
Tín ngưỡng thờ Tổ tiên
Người Việt trong buổi đầu khai phá vùng đất Tây Nam Bộ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn hiểm trở, chỗ dựa tinh thần đầu tiên chính là niềm tin vào tổ tiên/ ông bà luôn độ trì, dõi theo, phù hộ cho con cháu vượt qua khó khăn, sống được trên vùng đất mới.
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng Tây Nam Bộ được duy trì và tiếp nối, thể hiện sự tri ân, lòng hiếu thảo, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Không gian thờ phụng ông bà là bàn thờ, tủ thờ, gian thờ, nhà thờ, tùy vào điều kiện hoàn cảnh kinh tế mỗi nhà. Bàn thờ/ tủ thờ được đặt ở gian giữa của nhà hướng ra cửa chính.
Ở chính giữa trên mặt bàn thờ bày bát hương hoặc lư hương, hai bên là hai chân đèn, bên trái đặt chiếc bình bông/ độc bình để cắm hoa, bên phải đặt đĩa thờ mâm ngũ quả theo nguyên tắc “Đông bình Tây quả”.
Phía sau bàn thờ là một chiếc bàn nhỏ và thấp hơn dùng để đặt di ảnh hoặc bài vị ông bà. Trên tường vách, phía sau bàn cúng này thường treo tranh phong cảnh sơn thủy, hoặc tranh chữ như “Phước, Lộc, Thọ”.
Trên cao, phía trước bàn thờ là bức hoành phi, dọc hai bên có hai câu đối có nội dung nhắc nhở, ca tụng về công lao ân đức của tổ tiên hoặc lòng biết ơn của con cháu. Nhiều gia đình người Việt ở vùng Tây Nam Bộ còn bài trí bàn thờ theo kiểu tiền linh hậu Phật hoặc tiền linh hậu thánh.
Theo đó, bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trung tâm, trên cao hoặc bên cạnh, gia chủ đặt trang thờ Phật bà Quan âm và trang thờ Quan Vân Trường – Quan Công theo cách gọi dân gian.
Cúng giỗ Tổ tiên hằng năm là một việc làm vô cùng quan trọng, thường tổ chức đám giỗ cho 4 đời: cha mẹ, ông bà, ông bà cố nội, ông bà sơ. Từ đời thứ 5 trở lên, đám giỗ trở thành giỗ hội, ngày giỗ chung của cả họ tộc để tri ân, tưởng nhớ ông Tổ dòng họ.
Nhiều tộc họ ở vùng Tây Nam Bộ như Tiền Giang, Đồng Tháp, khi cúng giỗ tổ tiên còn thực hiện lễ “cúng việc lề” nhằm nhận diện tổ tiên, tộc họ. Thông qua vật cúng ngầm định riêng của từng tộc họ, người cùng họ có thể nhận ra nhau, đồng thời sẽ hình dung được những khó khăn gian khổ của tổ tiên trong buổi đầu khẩn hoang.
Điều này được thể hiện qua lễ vật và nghi thức giỗ họ, mang tính phổ biến, như: cháo cá ám và cá lóc nướng trui không thiếu trên mâm cúng; thức cúng được bày trên các lá sen, lá chuối, bẹ chuối cùng với nhánh cây nhỏ hoặc cọng sậy, cọng lát, cọng chuối hay miếng lá dứa gai.
Tất cả được đặt trên chiếu, trải dưới đất trước sân nhà. Lễ tất khi nghi thức thả bè chuối cùng các vật phẩm được bày trong bè đem thả ra sông rạch, với ý nghĩa đưa tổ tiên về quê gốc, qua đó còn khắc sâu trong tâm khảm con cháu về công lao của ông bà đã không ngại hiểm nguy vượt sông biển vào phương Nam, tạo dựng cuộc sống cho con cháu.
>>> Có thể bạn quan tâm: Top Nhang Lưu Bảo Thành năm 2023
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng
Làng Việt ở Tây Nam Bộ là làng khai phá, với phần lớn lưu dân Việt có nguồn gốc Thuận – Quảng đến khẩn hoang, lập làng, lập xóm. Vị thần bảo trợ cho cộng đồng làng trên mọi mặt của cuộc sống nông nghiệp – thần Thành Hoàng đã được “tái hiện” tại các làng Việt trên cơ sở phát triển truyền thống thờ Thành Hoàng từ vùng quê gốc Trung Bộ/ xứ Quảng.
Giống như nhiều đình làng Trung Bộ, Thành Hoàng các làng Việt ở đây không phải là một vị thần cụ thể có ngai tượng và danh tính rõ ràng mà chỉ có chữ “thần” làm biểu tượng thờ kèm danh xưng Thành Hoàng Bổn Cảnh hoặc Thành Hoàng bổn xứ, với vai trò bảo hộ không gian, địa giới của làng; có chức năng và quyền uy của Thổ thần.
Ngoài thần Thành Hoàng là chính thần, các đình làng còn phối thờ nhiều vị thần khác, mà phần lớn có nguồn gốc từ vùng ngũ Quảng và Nam Trung Bộ đã gắn bó với cư dân trong lịch sử khai khẩn vùng đất mới.
Mỗi đình có thể thờ tự các loại thần khác nhau qua cách bài trí bàn hương án bên bàn thờ Thành Hoàng, nhưng nhìn chung, đình nào cũng có bàn hương án thờ phụng Tiền hiền, Hậu hiền với danh xưng Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ nhằm xác tín về niềm tin, sự kính tín, lòng biết ơn của cộng đồng người Việt Tây Nam Bộ đối với công khai phá lập làng của các bậc tiền nhân.
Lễ kỳ yên thường tổ chức hằng năm vào “xuân kỳ” tại các đình làng, biểu hiện sự kính trọng, niềm tin của dân làng đối với thần Thành Hoàng và các bậc thần linh.
Đây là lễ cầu an cho cả năm, mà cũng là lễ hội lớn nhất trong năm với mục đích là vía thần Thành Hoàng, cầu mong thần bảo trợ cho mưa hòa gió thuận, mùa màng bội thu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu
Thờ Mẫu là tín ngưỡng phổ biến của cả vùng Tây Nam Bộ, trong đó, sự thờ phụng của cộng đồng cư dân Việt là phát triển nhất, với từ xưng hô thân thuộc là Bà.
Họ thờ phụng nhiều Bà, trong đó quan trọng nhất là Bà Chúa xứ/ Bà Chúa xứ sở của cả vùng đất Tây Nam Bộ mang hơi hướng truyền thống thờ Mẫu của vùng quê gốc.
Ngoài trung tâm thờ phụng chính là núi Sam, thuộc Châu Đốc, An Giang thì hầu như làng Việt nào ở Tây Nam Bộ cũng đều có miếu thờ Bà Chúa xứ. Lễ vía Bà, một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cộng đồng quan trọng nhất, quy mô nhất, diễn ra thường niên tại núi Sam, từ ngày 23 đến ngày 27-4 âm lịch.
Cùng thời gian này, các miếu Bà Chúa xứ ở các làng quê cũng tổ chức lễ vía Bà nhằm cầu an, cầu thịnh cho cộng đồng nông nghiệp.
Nếu Bà Chúa xứ có quyền năng của Mẫu Địa – Thánh Mẫu che chở con người trên mặt đất, thì các Bà khác là biểu thị của các nữ thần hỗ trợ cho các vùng không gian gắn với các nghề mà con người làm ăn sinh sống, như làm nông, làm biển, làm rừng, làm nghề thủ công…
Theo đó, phổ biến nhất là Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Đại Càn, Bà La Sát, Bà Cửu Thiên Huyền Nữ, Bà Thiên Hậu, Bà Ngũ Hành, Bà Thủy Long Thần Nữ, Bảy Bà (Thất Thánh Nương Nương), Bà Chúa Động, Bà Cố Hỷ, Linh Sơn Thánh Mẫu.
Các Bà có nguồn gốc khác nhau, có Bà gốc Việt, gốc Chăm, gốc Hoa, nhưng đều được người Việt thờ phụng, gắn với ước vọng về sự bảo trợ của các Bà cho cuộc sống bình an, đủ đầy, dân đông, vật thịnh.
Tín ngưỡng thờ cá voi
Truyền thống làm nghề sông biển được người Việt mang từ vùng quê gốc (phần lớn có nguồn gốc từ xứ Quảng) vào phát triển tại Tây Nam Bộ, trong đó có tín ngưỡng thờ cá voi – thần Nam Hải bảo trợ cho nghề biển.
Thờ cá voi của cư dân biển vùng Tây Nam Bộ không khác mấy so với vùng quê gốc, từ danh xưng, danh thần đến quá trình hóa thiêng, không gian thờ phụng và nghi thức cúng tế.
Tuy nhiên, do tác động của bối cảnh môi sinh mới, nên vẫn thấy những sắc thái riêng trong thờ phụng cá voi của cư dân Việt vùng này. Vẫn là thờ thần Nam Hải trong lăng, nhưng có nơi phối tự với Bà Chúa xứ; có nơi phối tự với nhân thần Nguyễn Trung Trực và các vị thần khác như thần nông, Bà Đại Càn…
Thường niên, tại lăng thờ cá Ông, lễ hội Nghinh Ông được tổ chức vào khoảng tháng 3 âm lịch, diễn ra trong ba ngày, gồm: lễ nghinh Ông Nam Hải (đoàn đi nghinh Ông ở Duyên Hải, Trà Vinh có 3 bô lão hóa thân thành bộ ba Quan Công, Châu Xương, Quan Bình đi nghinh rước Ông); lễ tế Tiền chức; lễ tế thần nông và các chiến sĩ trận vong; lễ Chánh tế và lễ Tống quái (tống tàu, tương tự như lễ Tống ôn ở các làng biển xứ Quảng), sau đó là vui chơi giải trí của dân biển, như: hát bội, đua thuyền buồm, đua ghe chèo, đua cà kheo, vá lưới… trình diễn cải lương hoặc đờn ca tài tử.
Tín ngưỡng thờ các nhân vật lịch sử thời cận đại
Nam Bộ giai đoạn nửa cuối TK XIX, là nơi diễn ra các phong trào kháng Pháp xâm lược. Nhiều thủ lĩnh chống Pháp kiên trung đã lãnh đạo dân chúng đứng lên giành độc lập, được lưu danh sử sách, được vinh danh là những anh hùng kháng Pháp.
Nơi đã ghi dấu chiến công hoặc nơi hy sinh của các thủ lĩnh được dân chúng hóa thiêng và thờ phụng như những nhân thần/ Thành Hoàng của vùng đất, như: Trương Định (Tiền Giang), Nguyễn Hữu Huân (Tiền Giang), Nguyễn Trung Trực (Từ Long An đến Rạch Giá), Võ Duy Dương (Đồng Tháp), Trần Văn Thành (An Giang), Tứ Kiệt – “Bốn Ông Cai Lậy” (Tiền Giang)…
Lễ giỗ các vị anh hùng chống Pháp hy sinh đã trở thành lễ hội tưởng niệm của dân chúng đối với công lao của các anh hùng. Tiêu biểu cho hoạt động tưởng niệm này là lễ giỗ Nguyễn Trung Trực tại đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá (Kiên Giang).
Lễ hội diễn ra thường niên, trong 3 ngày: từ ngày 27 đến 29 – 8 âm lịch, trong đó chính hội là ngày 28. Phần lễ gồm các nghi theo cách cúng thần, phần hội là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng gồm: tái hiện những chiến công nổi bật của Nguyễn Trung Trực, biểu diễn võ thuật, các trò chơi dân gian, các cuộc thi tài, thi khéo (thi nấu ăn, thi làm cộ hoa, thi múa lân)… trình diễn đờn ca tài tử, biểu diễn Lân – Sư – Rồng…
Lễ còn là dịp để dân chúng “góp giỗ” ngày giỗ cụ Nguyễn được tươm tất, trọng thể, tạo điều kiện cho khách thập phương đến chiêm bái, phúng viếng “hưởng lộc thần Nguyễn Trung Trực”.
Các bạn vừa tìm hiểu xong những thông tin tham khảo về tín ngưỡng của người dân vùng Tây Nam Bộ cùng với Nhang Lưu Bảo Thành. Hi vọng những thông tin này sẽ giúp bạn cho được những điều hữu ích trong cuộc sống.
Có thể bạn quan tâm: